GIÁO HỘI HIỆP HÀNH: GIÁO
HỘI NHÌN TỪ BÊN TRONG
(Bài chia sẻ
dành cho các tu sĩ về Giáo hội hiệp hành)
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Am, SDB
Dẫn
nhập
Cám ơn anh chị em
đã hưởng ứng tích cực trước những hướng đi của Đức Phanxicô và qua đó của toàn
Giáo hội (GH), trong đó có GH tại VN. Chúng ta đã luôn cầu nguyện và hiệp thông
với GH hoàn vũ, được cụ thể hoá nơi vị Đức Phanxicô, đại diện Vị Chủ Chăn Tối Cao
và Nhân lành của GH, Đức Giêsu Kitô.
Đó chính là công
trình của Thánh Thần nơi tất cả chúng ta. Đó là cảm thức đức tin, là bản năng đức
tin mà dầu Thánh Thần luôn đảm bảo cho chúng ta trong chân lý Tin mừng. Chúng
ta hãy can đảm tiến bước.
Hôm nay, xin được
chia sẻ với anh chị em, cách riêng các tu sĩ, về GH hiệp hành. Nhưng với chủ đề
khác: Hãy nhìn, hãy sống, hãy là GH từ bên trong.
Xin anh chị em hiểu
cho, bài này tôi hướng tầm nhìn cách riêng tới các tu sĩ nam nữ. Nhưng không phải
như một giới riêng biệt. Song đúng hơn, như những tín hữu, như những môn đệ Đức
Kitô được thôi thúc để sống ơn gọi thánh tẩy một cách sung mãn và tròn đầy hơn.
Nó không tạo cho các tu sĩ nam nữ như một thành phần ưu tuyển cho bằng là một
chứng từ sống động để nói rằng ơn gọi thánh tẩy, ơn gọi theo Đức Kitô cách triệt
để là có thể được trong ơn sủng của Thiên Chúa, đấng hoàn thành những gì tốt đẹp
ngài đã khởi sự nơi các tín hữu Đức Kitô.
I. ĐỊNH VỊ NGƯỜI TU SĨ
Một cách sơ lược,
chúng ta biết rằng đời sống tu sĩ được phát sinh từ đời sống thánh tẩy trong đó
có một nhịp độ kép: thoát ra khỏi lối sống và hành động của thế gian và hoàn
toàn hiến mình cho Thiên Chúa.
Vatican II đã muốn
canh tân đời tu sĩ bằng cách kêu gọi trở về nguồn, bỏ đi những gì không làm
sáng tỏ giá trị cội nguồn của đoàn sủng và thích ứng, nghĩa là, can đảm trình
bày đoàn sủng ấy một cách mới mẻ trong sự trung thành. Đó không phải chỉ là một
sự thay đổi suông, như thể đi mỹ viện. Phải hơn, đó là một cuộc hoán cải mang
tính GH ngay trong hoàn cảnh hôm nay của mỗi tu sĩ, xét như cộng đoàn, hội dòng
và cá nhân. Công đồng đảm bảo rằng giá trị đời tu không nằm ở chỗ quyền bính,
phẩm trật trong GH, nhưng liên quan đến sự thánh thiện của một GH hoàn toàn đam
mê Thiên Chúa và đam mê những con người. Và đó là một trong những chọn lựa cao
quý nhất mà một người tín hữu có thể làm được.
Ơn gọi tu sĩ có thể
coi như triều thiên của cộng đoàn đức tin. Ơn gọi đó không đến cách ngẫu hứng
hay bất chợt. Nó luôn có chỗ rất lớn dành cho công nghiệp, cầu nguyện, chứng tá
của cộng đoàn GH. Song không phải lúc nào ta cũng thấy được điều đó. Nó xuất
phát từ GH, sống và tăng trưởng trong GH và vì GH.
Đức Phaolô VI,
Gioan Phaolô II, và Bênêđictô XVI, Đức Phanxicô lại cho thấy rằng người tu sĩ ở
tận sâu trong lòng GH. Trực giác đó, chị Têrêsa Hài đồng, diễn đạt rất đúng:
trong GH tôi muốn là tình yêu. Nếu vậy, ta phải xác định mạnh mẽ rằng: từ tình
yêu mãnh liệt đối với Đức Giêsu nhất thiết phát sinh tình yêu mến dành cho GH,
bất chấp GH có là gì đi nữa. Ta không được để hai tình yêu đó tách rời hay cao
thấp. Người tu sĩ cùng lúc hiến thân tuyệt đối cho Đức Kitô, thì cũng cùng lúc
sống chết cho GH, Hiền thê của Ngài. Trực giác này không diễn đạt bằng lời,
song bằng đời sống: một chị Teresa Calcutta, một Maximilian Kolbe, một Phanxicô
Assisi, một Gioan Bosco, một Ignatio hay Anphongso. Ta chỉ kể ra một số rất nhỏ.
Vậy: người tu sĩ
phải ở trong lòng GH cách mãnh liệt, phải cùng nhau bộc lộ GH là gì và GH sống
cho điều gì. Ta có thể nói không sợ sai, song thật mạnh mẽ và thách đố rằng người
tu sĩ, cá nhân cũng như cộng đoàn, giống như là một GH thu nhỏ để nói cho thế
giới biết rằng Đức Kitô là trên hết, Thiên Chúa tình yêu lấp đầy mọi khát vọng
yêu thương và tự do của con người và phụng sự Thiên Chúa trong GH là một niềm
vui khôn tả.
Tại sao phải đặt
mình ở trong: GH nhìn từ bên ngoài, ta cũng chỉ thấy những mảnh lắp ghép của cơ
sở, thể chế, hiệp hội, hội đoàn. Và chúng chẳng là gì cà, nếu đúng là thể.
Nhưng điều ấy mới chỉ là một mảnh của sự thật. Trong Giáo hội, chúng ta đang ở
trong bình diện đức tin. “tôi tin có Hội thánh duy nhất...” Giống như ở ngoài
nhà thờ chính toà, các tấm kiếng màu chỉ như là những tấm kiếng thô kệch, không
đồng nhất. Chỉ khi ở trong chúng ta mới nhận ra vẻ đẹp của bức tranh xuyên qua
những tấm kính khác nhau đó. Đó chính là điều đức Giêsu trong Tin mừng Marcô
nói về người ở bên trong và bên ngoài đối với những dụ ngôn của ngài.
II.
ĐỊNH VỊ NGƯỜI TU SĨ, CÁ NHÂN VÀ CỘNG ĐOÀN, TRONG THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
2021-2023
Câu hỏi thường đặt
ra: chúng tôi, các tu sĩ, đóng góp gì cho Thượng Hội đồng Giám mục? Trong đó,
ta có thể thấy ít nhất hai điều này: tôi và cộng đoàn tôi đóng góp cho Thượng Hội
đồng Giám mục sắp tới một vài ý kiến, một số thách đố, một số vấn đề mà Giáo hội
đang gặp phải tại địa phương tôi. Và thứ đến, Thượng Hội đồng Giám mục thật xa
với chúng tôi. Bất quá chúng tôi chờ mong kết quả của những vị chuyên viên đưa
ra, cũng như tông huấn hậu Thượng hội đồng Giám mục đó. Rồi thêm vào kho thư viện
của chúng tôi. Nói tắt, Thượng Hội đồng Giám mục không phải của chúng tôi.
Chúng ta đã từng làm như thế. Các Thượng Hội đồng Giám mục có tác động gì mấy
trên chúng ta đâu. Không phải là nhiều chuyện khác gần chúng ta hơn hay sao?
Thái độ sống đó
đúng là thái độ “chúng tôi đã từng làm như vậy mà”. Nhưng đó lại là điều mà Đức
Phanxicô xác quyết: Không được nữa rồi. Nó chỉ bộc lộ một thái độ xa lạ, nếu
không nói là dửng dưng, đối với Giáo hội thiết thân với ý nghĩa và đời sống của
tôi.
Chính điều này cho
chúng ta thấy: GH vẫn còn là một thực thể xa với chúng ta cách nào đó. Thực tại
GH vẫn chưa phải là mối quan tâm canh cánh bên lòng chúng ta. Và điều này,
chúng ta muốn thay đổi, canh tân.
Trong nhiệm vụ xây
dựng Giáo hội, Đức Phanxicô mời gọi dân Chúa, và dĩ nhiên, các tu sĩ hăng hái,
sẵn lòng và quảng đại để làm cho Thượng Hội đồng Giám mục này trước hết và tiên
vàn là cho từng cộng đoàn: gia đình, dòng tu, giáo xứ, giáo phận, vùng miền,
hoàn vũ. Nghĩa là nó muốn mang lại một sức năng động mới cho đời tin, cậy, mến
nơi mỗi cộng đoàn.
Thật không vậy?
Hay chỉ là “tưởng tượng”, nếu không nói là bịa đặt. Rất thật là thế. Trong tài
liệu làm việc, chúng ta thấy đưa ra những điều cốt lõi để duyệt xét.
Những đề tài ấy là
như sau:
1) Những người bạn đồng hành:
“Trong Hội thánh và xã hội, chúng ta sát cánh bên nhau trên cùng một nẻo đường”.
Điều này có quả thực đang được sống trong các cộng đoàn giáo hội: gia đình, các
hội đoàn, giáo xứ. Toàn nhóm giáo hội chân thành và can đảm duyệt lại và nhận
diện xem những ai đang là những người ở bên lề cuộc đời của chúng ta, như cá
nhân và như cộng đoàn GH. Những thành phần nào trong giáo xứ, trong giáo hội
không có chỗ trong chúng ta; nếu có, bức tranh về một GH hiệp hành quả là chưa
tròn.
2) Lắng nghe: “là bước đầu
tiên, đòi hỏi khối óc và con tim rộng mở, không thành kiến.” Điều GH hiệp hành
được gọi để làm không gì khác hơn là LẮNG NGHE. Đã có một thời gian ecclesia
discens và ecclesia
docens tách
lìa nhau đến độ phẩm trật là THẦY DẠY, còn giáo dân là HỌC TRÒ. Ta đã đánh mất
một điều quan trọng: Toàn GH đều là học trò/môn sinh. Và chỉ khi nào GH hoàn
toàn là môn sinh, GH mới có thể là thầy dạy. Mãi mãi GH là người môn đệ. Nếu
đúng là như vậy, thì chúng ta lắng nghe được gì từ các thành phần Dân Chúa, từ
những người ở xa và bị loại bỏ? Có một loại ‘diễn đàn’ cho họ không? Nhưng ý
nghĩa không phải là thực hành một kiểu cách dân chủ “vox
populi, vox dei”,
nhưng là để lắng nghe Thần khí tự do đang thổi nơi các Giáo hội.
3) Phát biểu: “mọi người được
mời gọi can đảm (parrhesia) lên tiếng” cách
tự do, trong chân lý và bác ái. Tài liệu chuẩn bị mời gọi mọi phần tử GH chia sẻ
những nghĩ suy của mình, theo như Thần khí thúc đẩy và khởi hứng. Chính trong sự
bạo dạn của đức tin này, nguyên lý được Đức Gioan XXIII nhắc lại từ
Augustinô phải được hiện thực một cách mới mẻ: “Trong những điều cốt
yếu, ta hiệp nhất; trong những gì không cốt yếu, ta được tự do, và trong mọi sự,
có đức ái.” Như thế, sự bạo dạn ở đây không có nghĩa là đấu tranh đảng phái, lập
trường, nhưng là sự bạo dạn của đức ái, một đức ái hy vọng mọi sự, tin tưởng mọi
sự, tha thứ mọi sự. Như thế, làm sao để nói lên được điều quan trọng đối với
chúng ta?
4) Cử hành. Chính trong ánh
sáng đó, sự tụ họp của Giáo hội hiệp hành không phải là một sự tụ họp xã hội,
giao lưu. Không. Đúng hơn, đây là một cuộc cử hành, cuộc canh tân giao ước, giống
như Dân Israel quy tụ ở Sinai, ở Giêrusalem sau thời lưu đày (x. Nkm 81-9:37; Er
6:19-22). Tụ họp để cử hành Thiên Chúa ở giữa chúng ta.[1] Chính vì thế,
cùng nhau tiến bước trong GH không chỉ tuỳ vào thiện chí của con người mà thôi.
Nó phải khởi sự và dẫn vào cầu nguyện dựa trên Lời Chúa và trung tâm là Thánh
Thể. Lời Chúa và Thánh Thể phải chi phối những quyết định quan trọng của cộng
đoàn để phục vụ Nước Thiên Chúa giữa những con người đau khổ.
5) Đồng trách nhiệm trong sứ vụ.
Chúa không trao cho mỗi người chúng ta một sứ mệnh riêng biệt. Không phải. Toàn
GH chỉ nhận lãnh một sứ mệnh của chính Đức Giêsu.[2] Chính Đức
Giêsu cho toàn GH chia sẻ sứ mệnh của ngài: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai
anh chị em.” Không có một sứ mệnh cá nhân trong GH. Chính vì thế, tất cả đều đồng
trách nhiệm trong việc thực thi sứ vụ, dẫu với những hình thức hay dạng thức
khác nhau theo ơn gọi riêng của mình. Chính trong GH-môn đệ truyền giáo, mỗi
người chúng ta là môn đệ truyền giáo, chứ không chỉ làm việc truyền giáo.[3] Chúng ta hiệp
hành để thành cộng đoàn giáo hội truyền giáo. Nhất thiết cần làm cho mọi tín hữu
thấy trách nhiệm chia sẻ, loan báo Tin mừng khi mình được tin mừng hoá, như một
chứng nhân.
6) Đối thoại trong Hội thánh và xã hội.
Thách đố rất lớn trong GH tiền Vatican II liên quan đến đối thoại. Thách đố ấy
đã được Vatican II giải gỡ bằng cách dứt khoát đến với thế giới, đi vào thế giới
và đối thoại với mọi người, kể cả anh chị em vô thần. Vatican II đã nhận ra đối
thoại chính là phương cách của Thiên Chúa cứu độ con người và quy tụ nhân loại.
Chính dựa trên chân lý này mà GH buộc phải đi vào đối thoại như phương cách thiết
yếu để mời gọi con người đến với tình yêu cứu độ. Phương cách này làm cho GH trở
thành người bạn đồng hành với thế giới.[4] Nếu đó là sự
thật, thì đối thoại có chỗ đứng nào trong các cộng đoàn GH và từ đó trong các cộng
đoàn xã hội. Các tín hữu Chúa Kitô đối thoại thế nào với các thực tại văn hoá,
kinh tế, chính trị, xã hội, người nghèo? đấy là cách sống một GH hiệp hành vậy.
7) Với các hệ phái Kitô hữu khác.
Toàn GH đều nhận ra sự chia rẽ trong lịch sử GH đã làm cho chiếc áo không đường
may của Chúa Kitô đã bị rách nát. Nó đã thành muôn mảnh. Đó là sự phản chứng nặng
nề. Và vì thế, Vatican II đều đặt đại kết trở thành một nghị sự thiết yếu, một
đích tới cho mình.[5] Dẫu còn dài
đến mấy, thì con đường đại kết mà Vatican II nêu ra và tiến bước không thể ngừng
lại nữa. Nếu thế, một GH hiệp hành mới có khả năng hiệp nhất với anh chị em
Kitô hữu khác để cùng tiến bước về Thiên Chúa trên những nẻo đường nhân sinh.
Chính Công đồng Vatican II đã mở ngỏ rằng đang khi việc đại kết theo khía cạnh
giáo lý còn một đường xa lắm, thì GH vẫn có thể cùng với anh chị em hệ phái
Kitô hữu khác cộng tác trong việc biến đổi xã hội, truyền giáo, bác ái... Một
GH hiệp hành sẽ tìm được lối đi đại kết của mình.
8) Thẩm quyền và tham gia. Chúa Giêsu không
thiết lập một GH “cá đối bằng đầu”. Ngài đã thiết lập một Tông đồ đoàn trong đó
Phêrô kiện cường anh em mình. Ngài muốn có một Giám mục đoàn trong đó Giám mục
Roma như nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất của GH. Nhưng điều đó
không huỷ bỏ, trái lại, còn đẩy mạnh sự tham gia. Sự hiệp thông không thể chỉ
ngừng lại trên lý thuyết, song phải được hiện thực và tỏ lộ mạnh mẽ trong sự
tham gia. Thẩm quyền và tham gia không phải là hai cực đối kháng nhau. Đó là
hai thực tại tương thuộc nhau, vốn vẫn luôn thường căng thẳng với
nhau. Chính vì thế, một GH hiệp hành cũng là một GH hình thành được tiến trình
lấy quyết định mà trong đó mọi người đều cảm nhận được tham gia, cho dù những
quyết định được lấy không hoàn toàn được nghe theo. GH hiệp hành không thể
là một GH bị cào bằng hay “cá mè một lứa”, song cũng không phải là một GH
“vô ngã”, một tập thể không người chịu trách nhiệm cuối cùng.
9) Phân định và quyết định.
Tiến trình hiệp hành ta theo đuổi không chỉ lắng nghe. Đó chỉ là bước đầu. GH
còn phải phân định và đi tới quyết định hiện thực những gì Chúa tác động ở đây
và lúc này vì những con người.[6] Thánh Phaolô
không chỉ nói các cộng đoàn GH không dập tắt các thần khí, song còn phải phân định
các Thần khí. Vatican II nói đến việc đọc dấu chỉ thời đại để biết được ý định
của Thiên Chúa. Thần học hiện đại luôn đặt mình trong bối cảnh nhân sinh để suy
niệm điều Chúa nói cho các Giáo hội. Làm sao để tiến trình phân định và quyết định
xuất phát và làm hiển hiện “sự vâng phục Thần khí của cả cộng đoàn.” Ta cần tìm
ra phương cách hiện thực điều này.
10) Tự đào tạo trong tiến trình hiệp hành.
Thiên Chúa luôn kiên trì huấn luyện các tông đồ và môn đệ Ngài. Ngày nay, Ngài
cũng tiếp tục huấn luyện các tín hữu qua tiến trình hiệp hành. Khi chia sẻ chân
thành ngự trị trong một cộng đoàn, các thành phần được đào tạo sâu xa, vì nó đi
vào nội tâm. Tiến trình cùng nhau phân định và quyết định lại là cách Thiên
Chúa huấn luyện con cái mình, là cách người tín hữu đào tạo chính mình để nên
người môn đệ lắng nghe ngày một hơn và nhờ đó trở thành vị thầy linh đạo. Tiến
trình này là cách thức Thiên Chúa đang biến đổi trái tim của người môn đệ thành
trái tim của Chúa Giêsu. Đó là trái tim mới của người môn đệ vậy.
Mười chủ đề cốt
lõi này làm lộ hiện một GH không chấp nhận quy chiếu về chính mình, khi biết rằng
đó là cám dỗ thường hằng của mình. Chúng cho thấy một GH chỉ lấy Chúa Kitô và
cung cách của Ngài làm tiêu chuẩn hành động và sống cho mình. Chúng cho thấy một
GH không sống theo kiểu hoài cổ với chuẩn mực “trước kia chúng tôi đã từng làm
như thế.
Thượng Hội đồng
Giám mục này mong đợi cộng đoàn tu sĩ sẽ tỏ lộ được một cộng đoàn môn đệ được
thương mến của Đức Kitô khi thực sự lấy TIÊU CHUẨN: CÙNG NHAU ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG
ĐỨC GIÊSU KITÔ Là cách sống và hành động của mình: lắng nghe – phân định – tiến
bước cùng nhau. Không phải một thành phần nào kéo lê mọi phần khác. Trái lại, mọi
người lấy tư cách vai chính của mình.
III. ĐỊNH VỊ NGƯỜI TU SĨ TRONG GIẤC MƠ CỦA TOÀN GH ĐỂ XÂY DỰNG MỘT
GH HIỆP HÀNH
A. CÙNG MƠ VỀ MỘT
GH DÙNG TOÀN BỘ NHỮNG GÌ MÌNH CÓ VÀ MÌNH LÀ CHO SỨ MỆNH LOAN BÁO Nước Thiên Chúa
Ước mơ của Vatican
II là trình bày một GH dân Thiên Chúa, tất cả cùng nhau tiến về sự thánh thiện
của Tin mừng. Không một ai trong GH không được kêu gọi tới đó. Điều ấy toàn GH
đã nỗ lực và bộ mặt GH với Vatican II đã để lại những vẻ đẹp không thể chối cãi.
Nhưng thời gian với
những lo lắng sự đời có thể làm phai nhạt sự nóng cháy này. Tất cả chúng ta đều
kinh nghiệm như thế, y hệt như các tín hữu sơ khai, chẳng hạn tín hữu
Thessalonica đã mỏi mệt chờ mong Chúa đến. Và Thiên Chúa không mệt để nhắc lại
và thúc đẩy chúng ta một lần nữa. Ngài không mệt để quay trở lại với chúng ta,
động viên chúng ta, như đã từng tăng sức và động viên cho Elia trên đường dài tới
núi Horeb trong cơn bị bách hại do hoàng hậu Izabel. Ngài là vị mục tử nhân
lành, có những lúc đi đầu đoàn chiên, có những lúc đi giữa đoàn chiên, và có những
lúc đi cuối cùng đoàn chiên để đảm bảo rằng “những gì Cha đã ban cho tôi, tôi
không để mất một ai”.
Đức Phanxicô cho
thấy rằng Vatican II cũng muốn cả một sự hoán cải trong cơ cấu, trong mục vụ,
chứ không chỉ trong thiêng liêng và thần học mà thôi. Mạnh mẽ hơn, ngài còn nói
đến một sự hoàn cải của quyền giáo hoàng (conversion of papacy), để mang tính tập
đoàn hơn nữa, để bộc lộ GH đúng là dân Thiên Chúa hơn nữa, vì GH và Synodos,
cùng đi với nhau cho sứ mệnh, thì đồng nghĩa.
Chính vì thế, ngài
xác quyết Thiên Chúa muốn GH của thiên niên kỷ thứ ba phải trình bày được một
diện mạo GH hiệp hành.
GH đó cùng chung
tay dùng tất cả những gì mình có và mình là cho việc truyền giáo, không được hiểu
như một sự chiêu mộ tín đồ, cho bằng là “không thể không nói lên điều tai nghe
mắt thấy” về chính Đức Giêsu và tình yêu của ngài dành cho con người. GH không
còn làm một vài việc tông đồ hay việc truyền giáo, song toàn GH là môn đệ truyền
giáo. Không một ai trong GH được miễn khỏi sứ mệnh này. Trực giác này được chị
Têrêsa diễn đạt khi được tuyên phong là bổn mạng các vùng truyền giáo. Tất cả
các bệnh nhân trong GH đều tham dự vào sứ mệnh này bằng cách biết rằng những
đau khổ của họ mang một sắc thái mới, một ý nghĩa mới khi tham dự vào mầu nhiệm
khổ nạn của Đức Kitô vì nhân loại. Một GH sống niềm vui đến độ dám ra khỏi vùng
yên ổn và thoải mái của mình để làm bạn với những người bị đẩy ra ngoài lề; để
băng bó vết thương cho những người thương tổn như thể mình thật sự là kẻ bị
thương; để khóc với nhân loại đang khóc dưới mãnh lực xâu xé của THẦN TÀI.
Băng bó vết thương
có nghĩa là DÁM ĐẶT MÌNH VÀO TÌNH TRẠNG BỊ NGUY CẤP ĐỂ CHO NGƯỜI BỆNH ĐƯỢC SỐNG.
Đó là cách nhập thể lối sống của chính Đức Giêsu đến để chết cho người khác.
B. DỰA TRÊN KINH
NGHIỆM HIỆP THÔNG CHÚA BAN CHO CÁC TU SĨ
Mọi ngày trong cộng
đoàn tu sĩ, những con người cùng một chí hướng luôn gặp nhau; mỗi tháng đều tụ
họp lại để phân định Ý Chúa. Như thế, xét trên nguyên tắc, sự hiệp thông được tỏ
lộ như bầu khí các tu sĩ sống, làm việc, hoạt động và cử hành.
Như chúng ta đã
rõ: hình ảnh lý tưởng được Luca vẽ ra trong sách Công vụ về cộng đoàn tín hữu
sơ khai một lòng một chí quanh Chúa Giêsu được đại diện bởi các tông đồ được hiện
thực một mức nào đó trong cộng đoàn tu sĩ. Các vị sáng lập dòng đều lấy cảm hứng
thần linh từ đó cho đặc sủng/đoàn sủng của mình.
Cộng đoàn tu sĩ được
Đức Gioan Phaolô II định nghĩa như cộng đoàn hằng ngày bước theo linh đạo hiệp
thông trong đó huấn luyện chúng ta thành những người có thể nhìn thấy Đức Giêsu
Kitô nơi mọi người, nhất là những người bị bỏ ra bên lề.
Tuy nhiên, nhiều lần
chúng ta nghĩ về người khác hơn là trong chính cộng đoàn mình: trong cộng đoàn
tu sĩ có ai bị loại ra ngoài lề không? Cộng đoàn tu sĩ có thực sự cùng nhau
phân định Thánh Thần đang nói cho mình hay không? Cộng đoàn dám đón nhận tiêu
chuẩn sống truyền giáo hơn là “bo bo bảo tồn những cơ sở và cơ cấu” hay không?
Nếu duyệt xét được như thế, thì đó đã là một đóng góp quý báu cho Thượng Hội đồng
Giám mục 2021-2023 rồi. Như vậy chính tiến trình hình thành một GH hiệp hành trở
thành “phần rỗi” cho cộng đoàn tu sĩ, vì cộng đoàn đó đang được Thánh Thần đào
tạo thành cộng đoàn tu sĩ hiệp hành.
Hiệp hành là cấu tố
của GH; cũng là “cấu tố” của cộng đoàn tu sĩ vậy. Nơi đó, quyền bính là một tác
vụ, sự phục vụ chân thật. Hình ảnh “Kim tự tháp lộn ngược” nói gì cho cộng đoàn
tu sĩ? Đơn giản: những người đứng ở dưới người khác như người tôi tớ. Và một điều
tỏ lộ hơn hết: ecclesia docens và ecclesia discens không còn chia tách nữa. Phải
hơn ecclesia docens sẽ sai lầm nếu trước đó không phải là ecclesia discens; học
kép: Thiên Chúa và con người.
Lắng nghe, Phân định
trong đối thoại là chuyện thường hằng chứ không phải tuỳ dịp. Không ảo tưởng được:
đừng hòng có một GH hiệp hành, một cộng đoàn tu sĩ hiệp hành, một GH hiệp hành
tại gia mà không có đối thoại. Không thể có GH ấy, nếu chỉ “bằng mặt chứ không
bằng lòng”, không thể dám gặp nhau để thảo luận các vấn đề chung cũng như
riêng; kinh nghiệm này, Đức Phanxicô đã nói nhiều lần bằng những hạn từ, thí dụ
rất cụ thể và hiện sinh.
Sự lắng nghe, phân
định và đối thoại đây không phải là chuyện tìm đa số theo kiểu chính trị dân chủ
hay đảng phái. Nó bộc lộ ý nghĩa sâu xa của sự hiệp thông: hiệp thông với Thánh
Thần, với các sự thánh và với các thánh. Nhưng nó còn diễn đạt sự hiệp thông phẩm
trật (communio hierarchica), sự hiệp thông của các GH (communio ecclesiarum) và
s75 hiệp thông các tín hữu (communio fidelium) và tất cả nói lên một sensus
fidei fidelium: không thể sai lầm trong đức tin và phong hoá nhờ dầu Thánh Thần.
Giống như LG chương hai bối cảnh hóa chương 3 (phẩm trật) và chương 4 (giáo
dân) thì communio fidelium bối cảnh hoá communio ecclesiarum và communio
hierarchica.
C.
GIÁO HỘI HIỆP HÀNH TRONG TRUYỀN GIÁO
Dân Chúa vui mừng
vì trong đại dịch, anh chị em tu sĩ đã chung tay góp sức như một Giáo hội ra khỏi
chính mình, chết cho chính mình để anh chị em chúng ta được sống, được an ủi,
được yêu thương.
GH hiệp hành không
có mục đích nào khác hơn là trở thành cộng đoàn môn đệ truyền giáo. Không chỉ
là làm vài việc truyền giáo, song là trở thành GH truyền giáo. Điều này mới đảm
bảo cho chúng ta truyền giáo không phải là chuyện chiêu dụ tín đồ.
Lắng nghe, phân định
và đối thoại để thấy rõ ý định cứu độ của Thiên Chúa xuyên qua chúng ta: thanh
tẩy và biến đổi chúng ta thành dụng cụ hữu hiệu của tình thương ngài.
Kết
luận: Hạt nhân sinh động của tiến trình xây dựng một GH hiệp hành
Đòi hỏi ba điều:
thời gian. Không thể vội vàng, một sớm một chiều sẽ có ngay một GH hiệp hành:
ăn tô cháo nóng phải chậm chậm đi từ vành ngoài; một sự xây dựng lại, phục hồi
không chỉ những truyền thống linh đạo của Giáo hội hay những cơ cấu Thượng Hội
đồng Giám mục, nhưng là khôi phục nguồn mạch cảm thức đức tin (resourcement of
the sensus fidelium), một sự phục hồi việc dân Chúa như cộng đoàn nhớ lại ơn sủng
tuyệt vời được ban cho mình; và sứ mệnh: Dân chúa nhìn vào trong chính mình,
qua những thực hành hiệp hành và cơ cấu, để sống trung thành giữa những bối cảnh
đặc thù, nhưng còn học để sống tiếng gọi tông đồ là gặp gỡ người khác và chia sẻ
tin mừng.